Tọa đàm: Doanh nghiệp chuyển đổi xanh – Từ thách thức đến hành động

05/08/ 2025 85 lượt xem

(Dân trí) – Tọa đàm diễn ra tại tòa soạn báo Dân trí, lúc 9h sáng ngày 28/7/2025, với sự tham dự của TS. Nguyễn Hoài Nam, Phó Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường (ISTEE), trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Trong bối cảnh yêu cầu giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi xanh đang trở thành điều kiện bắt buộc không chỉ ở trong nước mà còn ở các thị trường xuất khẩu lớn như EU, doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp có thể tăng trưởng theo hướng bền vững, hiệu quả, đáp ứng xu thế toàn cầu.

Tọa đàm “Doanh nghiệp chuyển đổi xanh – Từ thách thức đến hành động” giúp doanh nghiệp và độc giả có cái nhìn rõ nét hơn về quá trình này. Chương trình có sự tham gia của TS. Nguyễn Hoài Nam – Phó Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường (ISTEE), trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

TS. Nguyễn Hoài Nam – Phó Viện trưởng Viện Khoa học vông nghệ Năng lượng và Môi trường (ISTEE), trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (bên phải) – chụp ảnh cùng ông Lê Đắc Thịnh Đồng – Chánh Văn phòng báo Dân trí (Ảnh: Hải Long).

Chương trình nằm trong chuỗi tọa đàm chuyên đề Talk GreenBiz – La bàn tăng trưởng xanh do Quỹ Vì tương lai xanh khởi xướng, hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức và năng lực hành động của doanh nghiệp Việt trước các cơ chế định giá carbon đang hình thành nhanh chóng.

TS. Nguyễn Hoài Nam chia sẻ những thông tin hữu ích, góp phần giúp doanh nghiệp có thể tăng trưởng theo hướng bền vững, hiệu quả, đáp ứng xu thế toàn cầu (Ảnh: Hải Long).

Quỹ Vì tương lai xanh, do Tập đoàn Vingroup thành lập vào ngày 7/7/2023, có sứ mệnh góp phần vào mục tiêu giảm phát thải ròng về “0” vào năm 2050 của Chính phủ.

Danh sách câu hỏi và những trao đổi, chia sẻ của TS. Nguyễn Hoài Nam

Hoàng Phổ 

Tốc độ chuyển đổi xanh của doanh nghiệp Việt Nam so với các nước ASEAN như thế nào? Việt Nam nên xây dựng chiến lược giảm phát thải ra sao để đón đầu yêu cầu của thị trường xuất khẩu?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Trong khảo cứu mà chúng tôi thực hiện phục vụ cho tọa đàm với báo Dân trí và Quỹ Vì tương lai xanh hôm nay, 70-80% cơ sở dữ liệu chúng tôi tìm kiếm không đến từ Việt Nam. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp khác tại ASEAN đang làm tốt hơn chúng ta; nhưng cũng có thể là chúng ta đang làm tốt nhưng lại không nói ra điều đó. Kết luận từ câu hỏi này xin gợi mở để độc giả suy ngẫm, đúc rút từ kinh nghiệm của mình nhưng tôi hi vọng chúng ta đang làm tốt.

Riêng với việc doanh nghiệp làm thế nào để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu thì có thể xét từ ví dụ gần gũi là ngành dệt may vốn đóng góp cho GDP và xuất khẩu rất lớn, cũng như có lượng nhân công rất lớn. Lĩnh vực dệt may của Việt Nam đang phải cạnh tranh với nhiều đối thủ mới không chỉ trong khu vực mà còn trên toàn cầu. Trong bối cảnh toàn cầu đang thực hiện các nỗ lực giảm phát thải KNK thì đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp thực hiện những việc liên quan đến may mặc, hoàn thiện sản phẩm để xuất khẩu cũng phải có cái nhìn thực tiễn, cập nhật, xem ta đang ở đâu để tăng năng lực và sức cạnh tranh.

Trong lĩnh vực chuyển đổi xanh và ESG, doanh nghiệp may mặc đang thực hiện bài bản, từ nhận dạng vấn đề, hiểu được đang có dấu chân carbon như thế nào, đến việc có chiến lược tại doanh nghiệp để thực hiện các biện pháp đó. Hiệp hội dệt may Việt Nam đã có rất nhiều chia sẻ, giúp đỡ cho các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực để liên tục cải thiện hiệu suất của mình, như dùng nhiên liệu tái chế (vải vụn từ hoạt động cắt may được đưa kèm vào nồi hơi để đốt với than, giảm phát thải KNK; hay hoàn toàn loại bỏ than và thay thế bằng nhiên liệu thân thiện hơn như sinh khối), cải tiến công nghệ (không lắp đèn khắp nhà máy mà thay đổi độ rọi tùy từng khâu), phát triển bao trùm (tăng quyền cho nữ công nhân, điện hóa phương tiện di chuyển của người lao động)… Cách đây 2 năm, đã có doanh nghiệp dệt may nghĩ đến việc hỗ trợ người lao động chuyển đổi từ xe xăng sang xe điện…

Điều đó cho thấy rằng mỗi ngành nghề sẽ có một cơ hội, có một giải pháp để thực hiện, miễn là doanh nghiệp đồng hành chung với xã hội, có trách nhiệm với xã hội, hiểu rằng chuyển đổi xanh không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp của mình mà còn mang tới những giá trị lớn hơn về mặt thương hiệu, nhận diện và sẽ thúc đẩy khách hàng ủng hộ doanh nghiệp nhiều hơn.

*********

Nguyễn Viết Trường

Có giải pháp nào để doanh nghiệp chi phí công nghệ sạch với nhà cung ứng hoặc đối tác logistics không?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Tại một số nước phát triển thì đã có cơ chế. Ví như trong thị trường tiết kiệm năng lượng và hiệu quả năng lượng thì đã có cơ chế SCO – tổ chức trung gian như một công ty dịch vụ năng lượng. Công ty này sẽ có các hình thức hợp đồng để thực hiện giải pháp tiết kiệm năng lượng cho cơ sở của doanh nghiệp. Loại thường thấy là hợp đồng theo kết quả.

Tức nếu chúng ta có tòa nhà, vận hành đã trên 15 năm, có hệ thống điều hòa nhiệt độ thế hệ trước chưa inventer hay biến tần, hệ thống đèn chiếu sáng cũ không hiệu quả. Thông thường, các công ty SCO sẽ làm việc với các khách hàng và cử nhóm kỹ thuật đến rà soát tổng thể xem khu vực nào, bộ phận nào có thể cải thiện hiệu quả năng lượng của nó. Sau đó, họ sẽ xây dựng một bài toán để xác định nên thay đổi công nghệ gì, cùng bảng tính thời gian thu hồi vốn, đồng thời chịu trách nhiệm cho phần đầu tư đó. Sau khi chúng ta có phần chi phí tiết kiệm được do các cải thiện này, thì sẽ phải trả lại cho họ khoản tương ứng.

Hiện các chính sách về tiết kiệm năng lượng, hiệu quả năng lượng tại Việt Nam cũng đã tính đến việc hợp pháp hóa hoạt động của các công ty dịch vụ năng lượng này. Ví dụ này cũng cho thấy trong việc chuyển đổi xanh, các doanh nghiệp sẽ không đơn độc, luôn có các đối tác trên thị trường cung cấp dịch vụ này cho quý vị.

*********

Phương Hoài 

Chuỗi cung ứng chưa xanh hóa có thể làm tăng phát thải gián tiếp. Doanh nghiệp có thể bắt đầu từ đâu để đánh giá và cải thiện chuỗi cung ứng của mình?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Chúng tôi nhận thấy chúng ta có nhiều cơ hội để quản lý phát thải toàn vòng đời của sản phẩm cũng như quản lý phát thải không chỉ trong nhà máy của mình hay trong lộ trình phân phối sản phẩm hay đưa đến tay người dùng. Tại Australia, doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến phát thải phạm vi 1 (trực tiếp tại doanh nghiệp của mình) mà chuyển sang cả phạm vi 2 (sử dụng điện) và phạm vi 3 (nhà phân phối của họ). Quá trình này cần lộ trình và sự đầu tư, cũng như năng lực được nâng cao nhất định.

Lời khuyên là doanh nghiệp nên biết phát thải ở phạm vi 1 như thế nào và trong tương lai nên quản lý dần như các nước phát triển đã đi trước.

*********

Trần Oanh 

Việc tích hợp công nghệ mới vào quy trình sản xuất hiện tại thường gặp gián đoạn. Doanh nghiệp nên chuẩn bị ra sao về mặt vận hành và đào tạo?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Việc này tùy thuộc vào việc doanh nghiệp muốn chuyển đổi xanh ở khâu nào, quy trình nào. Một lời khuyên của chúng tôi là trước khi thực hiện việc chuyển đổi thì nên có tham vấn với chuyên gia, các công ty cung cấp dịch vụ trên thị trường.

Không chỉ doanh nghiệp lớn , theo chúng tôi được biết thì cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dịch vụ tư vấn về cải thiện công nghệ, tiết kiệm năng lượng tại các cơ sở cũng khá dễ tiếp cận. Chi phí dịch vụ không quá lớn, chúng ta nên tận dụng. Các chuyên gia trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng của Việt Nam cũng đã có năng lực nhất định sau hơn 10 năm chúng ta áp dụng luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Các chuyên gia này khi đến với các doanh nghiệp sẽ thực hiện khảo sát đánh giá khâu nào đang chưa hiệu quả, khâu nào có thể cải thiện.

Quy trình tư vấn tại doanh nghiệp cũng có lựa chọn tiện lợi cho khách hàng. Nếu như tài chính của doanh nghiệp chưa đủ thì có thể lựa chọn gói Kiểm toán năng lực sơ bộ, với chỉ vài ngày làm việc và khuyến nghị các khâu của doanh nghiệp có thể tiết kiệm ở đâu.

Ví như với 1 tòa nhà, chỉ với vài phép đo thôi cũng có thể biết khâu nào đang sử dụng điện hoặc năng lượng chưa hiệu quả, có thể thay thế thiết bị nào. Cũng có doanh nghiệp nhờ các đơn vị chuyên môn đã có những giải pháp không tốn phí như thay đổi 1 số quy trình, thay đổi một số khâu trong quá trình ra quyết định hoặc để ý hơn đến các quản lý năng lượng…

Với doanh nghiệp có quy mô lớn, các giải pháp công nghệ sẽ cần đánh giá rất kỹ lưỡng. Ví như dây chuyền đã hoạt động 7-8 năm thì doanh nghiệp cần mời chuyên gia liên hệ với hãng để rà soát đoạn nào nên thay, chưa nên thay; việc tối ưu giữa chuyển đổi công nghệ và tối ưu công suất hoạt động hay đảm bảo không gián đoạn luôn là bài toán cần tham vấn chuyên gia.

*********

MC:

Riêng về tài chính xanh, tiến sĩ có thể gợi ý cho doanh nghiệp nên tiếp cận từ các bên trung gian như ngân hàng, quỹ đầu tư hay tổ chức phát triển?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Tài chính xanh và tài chính khí hậu là mối quan tâm toàn cầu, nhất là các nước đang phát triển, không chỉ ở Việt Nam. Kỳ họp nào của hội nghị của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu cũng đưa vấn đề này vào nội dung trọng tâm.

Bản thân doanh nghiệp phải tự mình thôi thúc để chuyển đổi xanh, góp phần tiêu thụ ít tài nguyên, mang lại giá trị xanh cho cộng đồng và giảm phát thải KNK. Họ cũng cần công nghệ và nguồn lực đi theo để đầu tư.

Tài chính khí hậu hiện có các nguồn gồm khoản vay liên quan đến dán nhãn xanh được giải ngân thông qua các ngân hàng. Ví dụ trong giai đoạn 2019-2021, ngân hàng HDBank đã có những gói hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện triển khai hệ thống điện mặt trời mái nhà. Các gói tín dụng này có hiệu ứng tích cực, giúp các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng điện mái nhà có thể tiếp xúc được bên thứ 3 là các đơn vị đầu tư hệ thống đó, sử dụng các nguồn tín dụng xanh này.

Nguồn khác là từ các tổ chức quốc tế, như Hỗ trợ phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng thế giới (WB), Hỗ trợ phát triển Hàn Quốc (Koica), Cơ quan năng lượng Đan Mạch… Nhiều năm gần đây họ vẫn duy trì và phối hợp các bộ ngành của Việt Nam để thực hiện các chương trình hỗ trợ chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp.

Nếu độc giả là doanh nghiệp trong ngành công nghiệp thì có thể dễ dàng tìm kiếm các thông tin này ở trên các cổng thông tin Bộ Công Thương. Bộ Tài chính cũng có các dự án để hỗ trợ cho doanh nghiệp chuyển đổi xanh. Ngoài hỗ trợ về kỹ thuật, họ còn cung cấp các giải pháp cho doanh nghiệp. Ví như dự án Thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong lĩnh vực công nghiệp của Bộ Công Thương cung cấp các khoản hỗ trợ liên quan đến bảo đảm khoản vay. Thông qua ngân hàng SHB, các doanh nghiệp có thể đề xuất các khoản vay với lãi suất ưu đãi và quy trình thẩm định thân thiện hơn để doanh nghiệp có nguồn lực thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng như thu hồi nhiệt thải tại nhà máy xi măng, cải tiến lò nung trong nhà máy thép…

Ngoài các kênh này thì gần đây thu hút sự chú ý và sẽ là kênh chủ đạo là cơ chế phát hành nguồn trái phiếu xanh. Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore đã phát hành thành công nhiều trái phiếu xanh (Green Bonds). Trong bối cảnh Việt Nam đang có mục tiêu xây dựng các trung tâm tài chính tại TPHCM và Đà Nẵng thì chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm từ Singapore để doanh nghiệp trong nước tiếp cận được thông qua các kênh đa dạng hơn.

*********

MC:

Cụ thể hơn, liên quan đến thị trường carbon tự nguyện, doanh nghiệp nào sẽ có lợi ích khi tham gia?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Trong trường hợp này, bên mua sẽ là bên tìm kiếm giá trị môi trường trong các tín chỉ đó. Cụ thể, doanh nghiệp là bên nhận tín chỉ sẽ được ghi nhận là có nỗ lực trong giảm phát thải KNK. Còn bên bán, ngoài các hoạt động thông thường vẫn làm thì sẽ có nguồn thu đáng kể, giúp bảng cân đối kế toán của họ trở nên rất tích cực.

*********

MC:

Về tín chỉ carbon tự nguyện của Việt Nam, TS. Nam đánh giá như thế nào về tiềm năng thị trường này và nó có cơ hội nào cho các doanh nghiệp?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Tín chỉ tự nguyện sẽ có phía cung và phía cầu. Ở Việt Nam, đa phần các doanh nghiệp quan tâm đến tín chỉ tự nguyện theo hướng là bên cung cấp. Bên mua và đối tác nhận tín chỉ đó phần lớn là các tập đoàn nước ngoài, như các tập đoàn có nhiều công ty trong danh sách Fortune 500, Forbes 500. Họ mua để phục vụ các mục tiêu tuân thủ hoặc mục tiêu ESG.

Việt Nam sẽ triển khai thị trường carbon trong nước và cơ chế của Chính phủ sẽ là có hạn ngạch phát thải dành cho các cơ sở phát thải lớn. Khi các cơ sở này phải thực hiện phát thải đúng theo hạn ngạch được cung cấp thì sẽ có nhu cầu đi mua các tín chỉ này, trước tiên là từ đối tác trong nước.

Hiện các cơ chế liên quan đến tín chỉ tự nguyện sẽ dựa trên giao dịch song phương, tự tìm và thỏa thuận với nhau nên cũng chưa có nhiều quy định của Nhà nước về việc này. Việt Nam cũng đã tham gia các nghị định quốc tế như Nghị định thư Kyoto và đã có những giao dịch xuyên biên giới liên quan đến cơ chế phát triển sạch CBAM. Đối với thị trường tín chỉ tự nguyện, Nhà nước đến nay chưa có điều chỉnh gì và doanh nghiệp nên chủ động tìm kiếm các đơn vị trung gian làm đầu mối giữa bên bán và bên mua.

*********

MC:

Việc làm đầu tiên của doanh nghiệp để chuyển đổi xanh là đo lường được KNK, hay cụ thể hơn là kiểm kê KNK. Theo quan điểm của ông, doanh nghiệp nên bắt đầu tìm hiểu về những công nghệ như thế nào khi lựa chọn công cụ để phục vụ kiểm kê KNK?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Đối với Việt Nam, chúng ta đã có những khung chính sách và quy định, sắp tới triển khai vận hành thị trường carbon từ năm 2028. Cần làm rõ rằng không phải doanh nghiệp nào cũng cần kiểm kê KNK. Quy định hiện nay của Việt Nam, những doanh nghiệp phát thải lớn mới phải kiểm kê bắt buộc hàng năm, phải báo cáo cho cơ quan chức năng 2 năm/lần. Các doanh nghiệp nhỏ chưa bắt buộc kiểm kê.

Nhưng với các thị trường phát triển, hoặc các nước quan tâm bảo vệ môi trường lớn thì có những khuyến khích để doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng thực hiện các giải pháp kiểm kê.

Với các doanh nghiệp lớn cần có những giải pháp, tính toán, khảo sát và những chuyên gia hỗ trợ cho việc kiểm kê, bởi quá trình sản xuất công nghiệp hay vận tải, quá trình phát thải KNK tương đối phức tạp. Do đó, ngoài các công nghệ và phần mềm hỗ trợ, cũng cần có các chuyên gia tham gia. Tại Việt Nam, thị trường cũng có các công ty tư vấn cung cấp các dịch vụ này.

Riêng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chúng tôi có gợi ý là sử dụng công cụ miễn phí. Ở Mỹ và EU cũng đã có những công cụ miễn phí giúp doanh nghiệp có thể tự kiểm kê. Các công cụ này có thể truy cập miễn phí trên internet, như tại website Cơ quan môi trường của Mỹ hay các cơ quan quản lý môi trường liên quan của EU, Nhật…

Tại Việt Nam, cũng đã có những công cụ được Việt hóa hay được phát triển bởi các chuyên gia trong nước. Nhiều doanh nghiệp lớn trong nước ngoài sản xuất kinh doanh cũng cung cấp các dịch vụ liên quan đến số hóa, tự động hóa quy trình kiểm kê với chi phí hợp lý, dễ tiếp cận. Thậm chí, một số công ty tư vấn trong lĩnh vực năng lượng, biến đổi khí hậu hay giảm nhẹ thì còn cung cấp công cụ này miễn phí.

*********

MC:

Những bài học mà doanh nghiệp Việt có thể học hỏi từ doanh nghiệp chuyển đổi xanh thành công tại Thái Lan hay Indonesia là gì? Hoặc ở Việt Nam có doanh nghiệp nào có bài học hay để doanh nghiệp khác noi theo hay không?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Trên cơ sở các khảo cứu tại khu vực ASEAN, tôi nhận thấy một điều rất thú vị là chúng tôi có thể gián tiếp so sánh với bối cảnh, hoạt động chuyển đổi xanh tại khu vực doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong các ví dụ tại Thái Lan, chúng tôi cũng đã có thống kê về những giải pháp mà nước bạn đã thực hiện, thì có thể đúc kết như sau: tại ASEAN, trừ Singapore, các nước có bối cảnh cạnh tranh nhất định với Việt Nam (như Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippine…) thì có thể thấy doanh nghiệp tại các nước này đang chuyển đổi xanh ở cấp độ khá lớn, phần lớn ở trong các linh vực truyền thống, những giải pháp áp dụng đều khá tốn kém về nguồn lực (trong lĩnh vực khai mỏ, xi măng, thép).

Điều này có bối cảnh tương đồng với Việt Nam khi những doanh nghiệp Việt tiên phong, đang thực hiện chuyển đổi xanh về cơ bản đều là doanh nghiệp lớn, sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ là chưa nhiều.

*********

MC:

Đâu là các yếu tố giúp doanh nghiệp tiên phong trong và ngoài nước thành công trong quá trình chuyển đổi xanh?

TS.Nguyễn Hoài Nam

Với doanh nghiệp, vấn đề nội tại, điều thôi thúc họ thực hiện chuyển đổi xanh là điều rất quan trọng. Tôi nghĩ, yếu tố đầu tiên để doanh nghiệp, lãnh đạo công ty và các khách hàng hướng tới chuyển đổi xanh là thành quả của quá trình này. Tức là, lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi ích gì thông qua việc chuyển đổi xanh và thông qua việc chuyển đổi xanh đó, những sản phẩm dịch vụ của họ xanh hơn, đóng góp và những mục tiêu giảm phát thải KNK, tiêu thụ ít tài nguyên hơn, cũng như đóng góp mạnh mẽ hơn, ý nghĩa hơn và có tác động mạnh mẽ hơn cho môi trường.

Tuy nhiên, qua các dự án đã từng làm việc, chúng tôi nhận thấy có 2 rào cản đối với việc doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh. Chỉ có quyết tâm và kế hoạch thực hiện là chưa đủ, mà doanh nghiệp phải nhận diện được sẽ thực hiện quá trình này như thế nào, bằng cách nào, giai đoạn nào, công nghệ và giải pháp hiện có liệu có thể tiếp cận hay không hoặc ít nhất là nhận ra được các giải pháp đó không, rồi khi nhận ra được các giải pháp này thì nguồn lực để thực hiện chuyển đổi xanh ở đâu.

*********

MC:

Có những công nghệ hỗ trợ kiểm kê phát thải và xây dựng báo cáo carbon nào, tài chính xanh, tín chỉ tự nguyện và hệ sinh thái hỗ trợ có vai trò ra sao đối với doanh nghiệp và đâu là những bài học hay từ những doanh nghiệp tiên phong. Để giải đáp những câu hỏi này, TS. Nam sẽ đồng hành cùng chúng ta qua phần trình bài với chủ đề “Doanh nghiệp chuyển đổi xanh – Cơ hội và thách thức”.

TS.Nguyễn Hoài Nam

Nội dung bài trình bày của tôi sẽ bao gồm:

– Tổng quan chuyển đổi xanh và giảm phát thải KNK

– Phân bổ địa lý và ngành công nghiệp

– Chiến lược giảm phát thải KNK

– Khó khăn và thách thức

– Nghiên cứu trường hợp tiêu biểu

– Kết luận, gợi ý để rút ra kinh nghiệm và gợi mở thực hiện chuyển đổi xanh tại Việt Nam

Phần 1: Tổng quan

Theo tài liệu của PwC và WWF, chuyển đổi xanh sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu không chỉ với tổ chức mà còn với bất kỳ quốc gia nào trong quá trình phát triển của mình. Tuy nhiên, phát triển kinh tế cũng cần đi liền với các mục tiêu liên quan đến phát triển bao trùm, công bằng xã hội cũng như giảm nghèo.

2 mục tiêu trên đều liên quan đến khía cạnh về kinh tế – xã hội, nhưng chuyển đổi xanh còn liên quan đến vấn đề về môi trường. Cụ thể ở đây là bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cho các cộng đồng dân cư, tổ chức và cho các quốc gia với giải pháp là giảm phát thải KNK.

Giảm phát thải KNK gắn liền với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở chỗ chúng ta sẽ tìm kiếm những mô hình để phát thải thấp hơn, các mô hình tăng trưởng mà qua đó sử dụng ít tài nguyên hơn và gián tiếp giảm bớt KNK, cũng như chúng ta phải xây dựng được những hệ thống, cơ chế và cách thức để thích nghi và giảm nhẹ biến đổi khí hậu trên quy mô tổ chức, địa phương và toàn cầu.

Chuyển đổi xanh của doanh nghiệp sẽ có nhiều cách hiểu, tuy nhiên, khái niệm được đồng thuận nhiều nhất là quá trình doanh nghiệp áp dụng các giải pháp công nghệ và quy trình vận hành nhằm làm giảm phát thải KNK, cải thiện hiệu quả năng lượng và tăng cường tính bền vững của doanh nghiệp.

Trong quá trình làm việc và phối hợp với doanh nghiệp cũng như các tổ chức liên quan thì khi doanh nghiệp thực hiện quá trình đổi mới, cải tiến công nghệ, đổi mới quy trình vận hành thì cũng đồng nghĩa với việc tăng cường tính cạnh tranh của mình trong lĩnh vực họ đang hoạt động.

Với Việt Nam, khi chúng ta có các doanh nghiệp chủ động tích cực chuyển đổi xanh thì cũng đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện các mục tiêu giảm phát thải KNK theo đóng góp quốc gia tự nguyện mà chúng ta đã báo cáo với Liên Hợp Quốc cũng như góp phần thực hiện những cam kết về phát thải ròng bằng 0 (net Zero) vào năm 2050.

Tuy nhiên, việc thực hiện cam kết giảm phát thải KNK có những nội dung, trách nhiệm nhất định liên quan đến doanh nghiệp. Doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm trong việc thực hiện các chiến lược giảm phát thải thông qua đầu tư công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các doanh nghiệp thành công trong giảm phát thải thường gắn liền với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa công nghệ, chính sách hỗ trợ của nhà nước và quy trình vận hành hiệu quả tại chính doanh nghiệp. Quá trình chuyển đổi xanh giúp doanh nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh, đáp ứng các yêu cầu về bền vững và thu hút các nguồn tài chính xanh.

Phần 2: Phân bổ địa lý và ngành công nghiệp

Tại khu vực ASEAN, các lĩnh vực có hoạt động chuyển đổi xanh, giảm phát thải KNK rõ nét như dầu khí, các lĩnh vực công nghiệp nặng như xi măng, khai khoáng, ngành năng lượng, gần đây thì có chuyển đổi xanh trong vận tải, nhiệt điện và các lĩnh vực khác.

Khảo cứu của chúng tôi cho thấy Việt Nam là một trong các quốc gia có thành tích cũng như thực hiện khá tích cực trong việc chuyển đổi xanh. Cụ thể là ngoài Thái Lan và Indonesia thì Việt Nam đang có những đóng góp rất tích cực.

Phần 3: Chiến lược giảm phát thải KNK

Các doanh nghiệp đã thực hiện một số chiến lược để chuyển đổi xanh tại cơ sở của mình. Về công nghệ, doanh nghiệp cần nhận diện dựa trên đặc thù ngành, bối cảnh cũng như sản phẩm mà doanh nghiệp đang cung cấp. Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, các công nghiệp như thu hồi nhiệt thải, tối ưu các hệ thống lọc và hệ thống quản lý năng lượng được đánh giá cao về hiệu quả giảm phát thải.

Các doanh nghiệp này cũng chủ động tìm kiếm các nguồn lực, như nguồn tài chính xanh phổ biến gồm trái phiếu xanh hay chính sách mua sắm công xanh của chính phủ.

Phần 4: Khó khăn và thách thức

Bên cạnh những thuận lợi thì cũng có những thách thức nhất định trong việc chuyển đổi xanh ở các doanh nghiệp. Về công nghệ, việc nhận diện được công nghệ cho từng lĩnh vực như xi măng, thép, chế tạo điện tử… cũng đã rất khó khăn, khi các nhà nghiên cứu cũng phải mất rất nhiều thời gian để biết đâu là công nghệ mình nên áp dụng để xanh hóa hoạt động sản xuất của mình. Các khó khăn khác có thể kể đến như chi phí cao, ảnh hưởng kế hoạch sản xuất khi áp dụng chuyển đổi xanh (dừng vận hành một số dây chuyền công nghệ, mô đun để sửa chữa hoặc thay thế).

Các chính sách quy định cũng chưa cụ thể, chưa có hỗ trợ rõ ràng. Lý do là thiếu sự đồng bộ, một số chính sách yêu cầu tuân thủ chưa được thực thi nghiêm ngặt khiến những doanh nghiệp chưa chuyển đổi xanh không có động lực để thực hiện.

Các doanh nghiệp cũng có thể chưa có đủ nguồn lực trong chuỗi cung ứng để tối ưu hóa cũng như hỗ trợ chuyển đổi xanh. Ví như nhà cung cấp không cung ứng được các nguyên vật liệu, mô đun, thiết bị đầu vào đáp ứng được tiêu chuẩn xanh của doanh nghiệp, gây cản trở cho việc tiếp cận vật liệu và thiết bị sạch.

Nhiều nội dung phi kỹ thuật khác như dữ liệu chuyển đổi xanh, hệ thống đo lường và báo cáo chưa xây dựng đầy đủ cũng làm giảm hiệu quả quản lý phát thải KNK.

Phần 5: Ví dụ tiêu biểu về ứng dụng công nghệ và đổi mới tại ASEAN

Công nghệ thu hồi nhiệt thải trong ngành xi măng ở Thái Lan; tối ưu màng lọc và quản lý năng lượng tại các nhà máy ở Indonesia; đổi mới sáng tạo công nghệ và nhiên liệu thay thế như clinke trong ngành xi măng tại Indonesia… là những giải pháp then chốt giúp các doanh nghiệp giảm đáng kể phát thải KNK.

Tập đoàn dầu khí quốc gia Thái Lan là một trong những cơ sở phát thải KNK lớn nhất tại Thái Lan. Bên cạnh việc phải đáp ứng các yêu cầu, cam kết quốc tế về khai thác tài nguyên, giảm phát thải KNK thì tập đoàn này cũng phải cân bằng các mục tiêu duy trì sản xuất, quản trị doanh nghiệp để không bị ảnh hưởng quá lớn bởi chuyển đổi xanh.

Tập đoàn dầu khí quốc gia Thái Lan đã triển khai các giải pháp công nghệ thu giữ, lưu trữ và tái sử dụng carbon (CCUS), kết hợp với các hệ thống giám sát và kiểm soát phát thải tự động nằm giảm lượng KNK phát thải trực tiếp từ hoạt động khai thác và chế biến dầu khí. Chúng tôi gọi đây là phạm vi 1 – phát thải trực tiếp từ các hoạt động của mình.

Họ còn triển khai các sáng kiến trồng rừng quy mô lớn và các chương trình tái tạo môi trường nhằm bù đắp lượng khí thải còn lại nằm trong yêu cầu tuân thủ, đồng thời phối hợp với các tổ chức môi trường để tăng khả năng hấp thu carbon tự nhiên.

Tập đoàn này cũng tối ưu hóa quy trình sản xuất thông qua tự động hóa, nâng cấp thiết bị tiết kiệm năng lượng, đồng thời áp dụng các tiêu chuẩn quản lý năng lượng quốc tế để nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong toàn doanh nghiệp. Thực tế, tại Việt Nam cũng có nhiều doanh nghiệp quy mô vừa và lớn dp dụng các mô hình tối ưu hóa vận hành sản xuất như bản sao số (digital twin) để có thể không cần áp dụng vào thực tế mà chỉ cần thử nghiệm trên mô hình mô phỏng và biết được khâu nào của quá trình sản xuất còn chưa hiệu quả. Mô hình này cũng cho phép làm các thử nghiệm thay thế hoặc cải tiến quy trình, dây chuyền trên mô hình máy tính để đánh giá kỹ lưỡng, chi tiết hơn trước khi thực hiện đầu tư vào quy trình hay dây chuyền trên thực tế.

Qua giai đoạn gần 10 năm qua thì tập đoàn này đã giảm được hơn 25% cường độ phát thải KNK so với năm 2012 và đặt mục tiêu đạt netzero vào năm 2050.

Một ví dụ khác là ngành xi măng Thái Lan – vốn là nguồn phát thải KNK lớn tại quốc gia này. Các doanh nghiệp lớn trong ngành này đã thực hiện biện pháp thu hồi nhiệt thải và sử dụng nhiên liệu thay thế, đồng thời đặt ra các mục tiêu rất tham vọng như giảm được lượng phát thải KNK tương đương khoảng 2 triệu tấn CO2 vào năm 2030. Cụ thể, họ đã giảm tiêu thụ clinke, sử dụng nhiên liệu thay thế giúp giảm nhiên liệu hóa thạch và nhiên liệu phát thải, thu hồi nhiệt thải từ quá trình nung clinke để tạo năng lượng cũng như giảm tiêu thụ nhiên liệu…

Thông qua các ví dụ của các doanh nghiệp tại Thái Lan, chúng ta có thể thấy là các phương pháp này đều phải xây dựng chiến lược tổng hợp để kết hợp được nhiều công nghệ khác nhau, đổi mới quy trình tiếp nhận tài chính xanh, có sự hỗ trợ của nhà nước trong chính sách cũng như thực hiện các giải pháp về bù đắp carbon. Các doanh nghiệp này cũng có các điểm chung, gợi mở nhưng bài học hữu ích: Ví như các doanh nghiệp này đều thực hiện các giải pháp đầu tư lớn vào các công nghệ tiên tiến, đổi mới sản phẩm quy trình. Đây cũng là nhân tố mang tới sự thành công của họ.

Tuy nhiên, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng có những chiến lược, giải pháp chưa cần đầu tư lớn ngay từ đầu mà chỉ cần liên quan đến quản lý, cải tiến quy trình, tối ưu tại tổ chức của mình để thực hiện thành công chiến lược chuyển đổi xanh.

Bên cạnh những thành công này, cũng có 1 số thách thức mà các doanh nghiệp này phải đối mặt. Thứ nhất chi phí vốn, rào cản kỹ thuật (chưa có sẵn nhà cung cấp công nghệ và giải pháp toàn diện); thứ hai là hỗ trợ từ các chính sách (cải thiện chuỗi cung ứng, làm việc tiếp cận tài chính xanh trở nên dễ dàng hơn).

Phần 6: Kết luận và khuyến nghị

Thông qua việc thực hiện chuyển đổi xanh, nó mang lại những tác động lớn trên cả 2 mặt. Thứ nhất là về kinh doanh của doanh nghiệp. Theo quan sát, các doanh nghiệp thực hiện được giảm phát thải KNK, chuyển đổi xanh thì đã nâng cao được hiệu quả sản xuất, giúp năng suất lao động tăng lên đáng kể, giảm chi phí vận hành và gián tiếp giúp doanh nghiệp nâng cao được uy tín cũng như thương hiệu trên thị trường cũng như trong tâm trí khách hàng.

Việc này cũng giúp các doanh nghiệp giảm các rủi ro pháp lý và tiếp cận thị trường quốc tế dễ dàng hơn. Hiện nay, việc giảm phát thải KNK, chuyển đổi xanh cũng đồng nghĩa với thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến quy trình sản xuất. Đây là hoạt động mang lại lợi ích kép, vừa giúp tiết kiệm chi phí năng lượng và nguyên liệu, đồng thời cũng cho phép cơ hội có lợi nhuận tốt hơn.

Thứ hai là về môi trường. Các doanh nghiệp này sẽ góp phần cho chính phủ, cộng đồng thực hiện các mục tiêu về khí hậu và giảm ô nhiễm môi trường. Như công nghệ thu hồi nhiệt thải, sử dụng công nghệ thay thế, tái trồng rừng và trồng rừng thì giúp hấp thụ CO2, nâng cao chất lượng không khí, đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái.

Qua các nội dung trên có thể thấy các nỗ lực chuyển đổi xanh của khu vực ASEAN cũng như Việt Nam đã mang lại những kết quả rất tích cực đến giảm phát thải KNK. Những khung chính sách như hỗ trợ thị trường trái phiếu xanh, những quy định liên quan đến mua sắm công cũng là một trong  những động lực then chốt trong việc tạo ra nhu cầu trong việc hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh và giảm phát thải khí nhà kính. Việc giảm phát thải KNK ở cấp độ doanh nghiệp tại khu vực ASEAN được thúc đẩy bởi sự kết hợp giữa áp dụng công nghệ, đổi mới quy trình và chính sách hỗ trợ tài chính, mang tới kết quả giảm hàng triệu tấn CO2 tương đương mỗi năm. Với các yếu tố thành công tại doanh nghiệp ASEAN, chúng ta cần có cơ chế tiếp cận dễ dàng hơn cho doanh nghiệp với các nguồn lực đầu tư xanh, chính sách rõ ràng từ Chính phủ thì sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn, nhanh hơn cũng như bền vững hơn.

============================================================

Quỹ Vì tương lai xanh, do Tập đoàn Vingroup thành lập vào ngày 7/7/2023, có sứ mệnh góp phần vào mục tiêu giảm phát thải ròng về “0” vào năm 2050 của Chính phủ.

Quỹ thúc đẩy các hành trình xanh trong cuộc sống hàng ngày, nâng cao nhận thức cộng đồng và kêu gọi mỗi cá nhân hành động ngay hôm nay để bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai.

Các hoạt động cộng đồng quy mô lớn của quỹ gồm chiến dịch chiến dịch “Thứ 4 Ngày Xanh” với loạt chương trình ưu đãi từ các công ty thành viên và công ty liên kết của Tập đoàn Vingroup dành cho hàng triệu khách hàng để khuyến khích lối sống xanh; Chiến dịch “Cùng hành động vì biển xanh” huy động khoảng 10.000 cán bộ Vingroup và các tình nguyện viên ra quân thu gom và dọn vệ sinh ở các bờ biển và cửa sông để hưởng ứng Ngày Đại dương thế giới 2025; Chiến dịch “Mùa hè Xanh” 2025 với sự tham gia của Đoàn Thanh niên của 33 cơ quan, viện, trường triển khai gần 30 dự án tại 14 tỉnh thành trên cả nước với khoảng 81.000 người hưởng lợi; Cuộc thi “Tiếng nói Xanh” và “Gửi tương lai xanh 2050″ dành cho học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 thu hút gần 23.000 thí sinh, lan tỏa đến hàng trăm trường học tại hàng chục tỉnh, thành trên cả nước…

============================================================

“Thông báo miễn trừ: nội dung trình bày và thảo luận phản ánh quan điểm của cá nhân tác giả, đồng thời không nhất thiết phản ánh quan điểm của Viện ISTEE hay VAST”

============================================================

Biên tập: Bùi Mạnh Tường, Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường

Nguồn tin: Doanh nghiệp chuyển đổi xanh – Từ thách thức đến hành động | Báo Dân trí

Bài viết cùng chủ đề:

    Phòng hỗ trợ nhân sự